Sau một năm tạm hoãn do đại dịch Covid 19, ESC đã trở lại với những màn trình diễn công nghệ đỉnh cao trước 3500 khán giả tại Rotterdam Ahoy đồng thời phát sóng trực tiếp tới hàng triệu khán giả theo dõi qua màn ảnh nhỏ.


Sau hơn 2 năm, Eurovision Song Contest (ESC) lần thứ 65 đã quay trở lại đem đến rất nhiều niềm vui cho các khán giả theo dõi tại nhà cùng 3500 khán giả may mắn và các đội thi có thể tham dự trực tiếp. Với khoảng 183 triệu lượt xem qua TV cũng như qua các  kênh truyền thông số, nhà sản xuất (bao gồm các đài truyền hình NPO, NOS, và AVROTROS - thành viên của EBU), đã vượt qua tất cả các chướng ngại để thể đem đến những màn trình diễn âm nhạc trưc tiếp đỉnh cao cùng các công nghệ biểu diễn mới nhất. Qua buổi phỏng vấn với team kĩ thuật backstage (qua Zoom), phóng viên TPi  đã đặt những câu hỏi với những thành viên chính trong team Creative, Supplier và Technician - những người đã cơ hội tham gia vào chương trình có quy mô lớn nhất châu lục diễn ra trong năm 2021.


Erwin Rintjema (Managing Director & Production Manager tại Sighline Productions) đã điều hành một team technical & production hoàn toàn mới với sự kiện lần này. Rintjema chia sẻ: “Tôi được đề nghị tham gia với vị trí Head of Production gần như ngay sau khi Hà Lan giành quyền đăng cai ESC 2019. Sightline Production đặc biệt được biết đến với những sự kiện âm nhạc & TV show quy mô lớn, do đó, khi cần tìm kiếm nhân sự cho vị trí Head of Production - tôi đoán rằng cái tên của tôi xuất hiện tương đối tự nhiên. Tôi đã rất vinh dự, với tôi, ESC là một chương trình tôi đã mong muốn được tham dự từ rất lâu, do đó khi nhận được lời đề nghị tôi đã rất vui vẻ đồng ý. Với mục đích đem đến những kết quả tốt nhất trong công việc, tôi đã quyết định tham dự với tư cách cá nhân, để đảm bảo sự tập trung và độc lập hoàn toàn.”


Nhiệm vụ của Rintjema là chịu trách nhiệm cho toàn bộ phần kỹ thuật và các hoạt động hậu cần. Từ set, sân khấu, ánh sáng, cơ sở vật chất phát sóng cho khán phòng chính, cho tới layout của khu vực tổ chức, không gian văn phòng, phòng thay đồ cho các đội thi, trung tâm báo chí và thậm chí là làm việc cùng team show & team contest để đảm bảo các màn trình diễn diễn ra hoàn hảo nhất có thể. Đó là một khối lượng công việc khổng lồ, yêu cầu tập hợp những đội ngũ có chuyên môn và vô cùng đáng tin cậy gồm Team Creatives, Technicians và Suppliers với mục đích duy nhất - giúp hiện thực hóa chương trình. Toàn bộ các Suppliers được lựa chọn đều phải trải qua quá trình bỏ thầu rất cạnh tranh của châu Âu


Các Supplier của ESC 2021 bao gồm Ampco Flashlight cho phần ánh sáng, Faber Audio với mảng video, NEP & EMG đồng chịu trách nhiệm cho phần phát sóng và AR; Opertec cung cấp các Camera chuyên biệt và cần cẩu: The Powershop chịu trách nhiệm cung cấp điện; Stage Kinetik cung cấp & vận hành thiết bị automation; Unbranded; Interstage, Pyrofoor; Resal Laser; Riedel Communications; và Broadcast Rental cho phòng Green Room, cùng nhiều nhà cung ứng khác. Chỉ riêng Ampco Flashlight đã cung cấp khoảng 4200m dây cáp cho loa, 2653m truss, 1782 thiết bị chiếu sáng, 506 palăng điên, 298 cabin loa & 220 tấn tải tĩnh và các thiết bị phụ trợ khác - khiến chương trình lần này trở thành một trong những chương trình sản xuất trực tiếp lớn nhất mà thế giới được chứng kiến - kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát.


Đội ngũ nòng cốt của Ampco Flashlight lần này bao gồm Account Director - Dennis van der Haagen; Deputy Account Director - Marc van der Wel; Project Director - Marco de Koff, cùng các thành viên khác. Van der Haagen chia sẻ: “Sau một quá trình đấu thầu vô cùng kỹ lưỡng trên toàn châu âu, chúng tôi rất vui khi được giao phần rigging, ánh sáng & âm thanh. Chúng tôi đã kết hợp kinh nghiệm từ trong công việc rigging & ánh sáng từ ESC năm 2018 tại Bồ Đào Nha, cùng với sự hiểu biết sâu rộng trong vấn đề âm thanh trong một sự kiện kết hợp giữa phát sóng & biểu diễn trực tiếp. Cách chúng tôi lựa chọn thành viên trong Crew cũng phản ánh hướng tiếp cận của chúng tôi với chương trình lần này.”


Tại Hà Lan, ESC lần thứ 65 được lựa chọn là sự kiện thử nghiệm về cách tổ chức một sự kiện an toàn trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn chưa hoàn toàn được kiểm soát. Ban tổ chức đã mở cửa cho 3500 khán giả cùng 39 đội thi đến từ 39 quốc gia. Ban tổ chức cũng đã kết hợp các biện pháp phòng ngừa về an toàn và sức khỏe một cách toàn diện để đảm bảo an toàn cho tất cả các đối tượng tham gia chương trình (Bao gồm cả nhân sự sản xuất chương trình).



“Từ những giai đoạn đầu tiên, chúng tôi đã làm việc dựa trên các kịch bản tình huống khác nhau, và khi cần thiết chúng tôi sẽ triển khai có các venue layout và các hạng mục sản xuất tương ứng dựa trên các tình huống có thể xảy ra.” Rintjema chia sẻ. “Kết hợp cùng với quy trình kiểm soát sức khỏe và an toàn một cách vô cùng kỹ lưỡng, toàn diện cho phép virus không thể tiếp cận được người tham dự.”



4 kịch bản được Ban Tổ chức chuẩn bị cho ESC 2021

FloorPlan ESC 2021 tại Ahoy Arena


FloorPlan ESC 2021 tại Ahoy Arena


FloorPlan ESC 2021 tại Ahoy Arena

FloorPlan ESC 2021 tại Ahoy Arena

FloorPlan ESC 2021 tại Ahoy Arena


Với 39 khách hàng riêng rẽ, tương ứng với 39 nước tham dự, mỗi nước có team creative, các designer, performer và kinh phí khác nhau - Rintjema và team cần phải kiểm soát tất cả. Rintjema chia sẻ: “Với một chương trình có quy mô khổng lồ về mọi khía cạnh, chúng tôi cần đảm bảo rằng mỗi team sẽ có màn trình diễn tốt nhất. Chúng tôi tập trung cung cấp các thiết bị & kỹ thuật tốt nhất trong khả năng cho các team tham dự, nhằm tạo ra 39 màn biểu diễn độc nhất trên sân khấu, và tôi cho rằng kết quả cuối cùng là minh chứng cho nỗ lực của chúng tôi.”


‘NHỮNG NGƯỜI VẬN HÀNH XUẤT SẮC NHẤT”



Ảnh 3D Renders từ thiết kế của Florian Wieder - người đã thiết kế nhiều sân khấu cho Eurovision



Ảnh 3D Renders từ thiết kế của Florian Wieder - người đã thiết kế nhiều sân khấu cho Eurovision



Ảnh 3D Renders từ thiết kế của Florian Wieder - người đã thiết kế nhiều sân khấu cho Eurovision


Set Designer, Florian Wieder đã làm việc chặt chẽ với team phát sóng, các designer của ESC và team sản xuất để lựa chọn ra set - kết hợp bởi rất nhiều khu vực biểu diễn với hình tượng “đường chân trời” - được lấy ý tưởng từ các con kênh và chiếc cầu - thứ kế nối đất liền và mặt nước tại Hà Lan. “Phong cách thiết kế sân khấu sử dụng hình tượng các “con sóng” theo hướng trừu tượng - thứ được lấy cảm hứng từ thiết kế của đất nước Hà Lan - nó rất hữu dụng trong nhiều tình huống, tinh tế, làm nổi bật ánh sáng sắp xếp theo đường thẳng. Tất cả đều được sắp xếp và tổ chức, giống như người Hà Lan vậy,” Wieder giải thích.


Quá trình thiết kế bao gồm chuyển đổi từ những nét phác thảo của Wieder tới những tấm hình renders sân khấu thực tế. Sau khi thiết kế được xác nhận, hình renders được chuyển tới các Art directors để chuyển đổi thành một mô hình CAD-3D và sau đó là sơ đồ mặt bằng và mặt cắt cũng như chi tiết bản vẽ cho tất cả các bộ phận và màn hình LED. “Thông thường, chúng tôi sẽ sắp xếp khán giả gần tới gần sân khấu. Năm nay, chúng tôi không thể thực hiện điều này, thay vào đó chúng tôi sắp xếp khu vực chỗ ngồi của các đội thi vào phía trước và hai bên sân khấu để bù lấp khoảng trống,” Wieder giải thích. “Tôi thích sự đơn giản của thiết kế lần này - đó là thành quả của quá trình làm việc tập thể giữa các producer, director và creative - đó chính là tầm nhìn chung của chúng tôi.”


Art Director, Cuno von Hahn và Art Director/Project Manager, Per Arne Janssen là người  quản lý dự án này, giám sát các cuộc gặp thường xuyên với các supplier và team sản xuất cũng như phát triển ý tưởng thiết kế cho phần mở màn và các nghệ sĩ khách mời. Unbranded Account và Project Manager, Antoine De Haas và Project Manager, Miranda Koopman có nhiệm vụ giám sát hạng mục decor. Một nhóm 35 người đã tham gia chặt chẽ vào quá trình lắp đặt với hơn 20 xe tải chứa thiết bị cho hạng mục decor. Unbranded CCO, Olivier Monod de Froideville nói: “Unbranded tất tự hào khi được đóng góp một phần quan trọng trong siêu sự kiện mang tính quốc tế này cũng như có thể được hiện thực hóa thiết kế của Florian Wieder.”




Khu vực điều khiển của Lighting Team


Henk-Jan van Beek đến từ Light-H-art đã mô tả các lựa chọn crew cho sự kiện lần này “Team của tôi bao gồm những Operators xuất sắc nhất - 3 người với kinh nghiệm vận hành tại nhà hát, 2 người có kinh nghiệm vận hành các EDM Festival, và nhiều người khác với có kinh nghiệm trong các hoạt động ghi hình & phát sóng. Tôi chỉ có thể đạt được tầm nhìn của mình với một đội nhóm phù hợp - đặc biệt là các Associate LD, gồm Bas de Vries và Joost Wijgers chịu trách nhiệm thiết kế sân khấu, và Martin Beekhuizen người chịu trách nhiệm quản lý các yêu cầu của 39 đội tham dự.”


Năm nay, team visual đã có thể khai thác sự tự do, cở mở của thiết kế và các yếu tố chuyển động nhằm tạo ra tính thẩm mỹ và tính tự sự của từng bài hát, hay từng cảnh. Mặc dù số lượng chủng loại thiết bị khá ít, tuy hệ thống ánh sáng có nhiều thiết bị ánh sáng hiện đại hơn, đem lại các hiệu ứng mạnh mẽ - đặc biệt khi kết hợp cùng các yếu tố chuyển động, các màn hình LED xoay, banners và các cánh tay robot.  Trong một show có rất nhiều yếu tố nổi bật, từ các hiệu ứng AR tới hệ thống follow-spot tự động phức tạp, Van Beek đã rất phấn khích trước hiệu ứng đặc biệt mà anh ấy có thể đem lại. “Chúng tôi được yêu cầu tạo ra thiết kế ánh sáng trong đó làm nổi bật tính hiện đại với phong cách riêng của mình - Bao gồm việc tích hợp phòng xanh,” anh ấy chia sẻ.


Thông thường, với hằng hà sa số các tùy chọn về công nghệ sẽ rất dễ khiến bạn rơi vào trạng thái bối rối, không biết lựa chọn nào đúng, tuy nhiên như Van Beek chia sẻ, mục tiêu của chúng tôi là chọn ra những thứ phù hợp đảm bảo sự kết hợp giữa ánh sáng vào các yếu tố thị giác khác đạt hiệu quả cao nhất.


“Sự linh hoạt cũng như sự phối hợp giữa tất cả các Creatives - bao gồm AR, nội dung trình chiếu màn hình LED và set design phải đảm bảo sự liền mạch. Chúng luôn luôn đảm bảo thiết kế tổng thể và hỗ trợ các đoàn giúp màn trình diễn của họ hoàn hảo nhất có thể.”


ESC Head of Video Content, Falk Rosenthal từ Gravity chịu trách nhiệm sản nội dung AR và các nội dung trên màn hình LED. “Eurovision luôn có những yêu cầu khắt khe về sản phẩm. Dù đây là lần thứ 7 tôi tham gia, nhưng thử thách thì không thay đổi - sản xuất nội dung cho tất cả các màn trình diễn luôn là một thử thách khó nhằn. Chúng tôi bắt đầu sử dụng AR từ 2019, nhưng Rotterdam là bước kế tiếp - thúc đẩy mọi thứ tiến lên. Tôi chắc chắn show diễn này sẽ ảnh hưởng tới công việc sản xuất của các show diễn thế hệ mới.”


Lighting Team đã phải kiểm soát cả ánh sáng phát ra từ màn hình LED & màn hình LED sàn. “Chúng tôi cần đảm bảo nhiệt độ màu cân bằng giữa ánh sáng và video, giữ cân bằng màu trắng và cường độ ánh sáng của video, giàn đèn phía trước và follow-spot tương ứng,” Van Beek chia sẻ.


Điều khiển dàn hợp xướng ánh sáng này luôn yêu cầu một số lượng lớn thiết bị điều khiển. Ampco Flashlight đã cung cấp 14 bàn điều khiển MA Lighting grandMA3 và 32 grandMA3 processing unit (ở trạng thái hoạt động).



Grand MA3 Light in action



Dàn GrandMA3 Processing Units quá hoành tráng


Bên cạnh một khối lượng khủng thiết bị ánh sáng được toàn quyền sử dụng, team thiết kế cũng có một hệ thống ánh sáng ảo bổ sung vào màn trình diễn. Dàn ánh sáng ảo AR được điều khiển bởi một vài Art-Net universe. Các media servers của hãng Disguise được kết nối đồng thời để điều khiển cường độ ánh sáng của màn hình LED và thậm chí là đèn xung quanh màn hình tạo hiệu ứng “ambilight”. Hệ thống ánh sáng tại Rotterdam Ahoy cũng được kết nối vào hệ thống. Việc kiểm soát các Universes và các thiết bị được thực hiện qua dmXLAN, Giám sát mạng (Network Monitoring) qua PRTG. Tất các các thiết bị được cài đặt địa chỉ thông qua RDM và được kiểm tra qua ứng dụng Fixture Tester. 


Các đèn Follow spots được đặt với nhiều góc độ khác nhau nhằm tránh va chạm với các flycam và các vật khác. “Chúng tôi đã có một mối liên hệ rất tốt giữa các đội tham dự và crew tại FOH,” Van Beek lưu ý. Có tổng cộng 12 thiết bị điều khiển RoboSpot cùng 14 camera, điều khiển một vài đèn BMFL WashBeam, BMFL Followspot LT và Motion-Cam. Tất cả các thiết bị được điều khiển bởi bàn điều khiển MA Lighting grandMA3 light qua Art-Net và tất cả được kết nối trong một hệ thống mạng dự phòng cho 26 camera và tín hiệu DMX-RDM. Tùy chọn thứ 2 với hệ thống Follow-spot sử dụng hệ thống của Follow-Me.



Robe Robospot in action



Follow-Me tracking system


Hệ thống Follow-Me 3D SIX cùng 3 bàn điều khiển được cài đặt để vận hành nhiều thiết bị ánh sáng cho hệ thống follow-spot, cho phép 64 thiết bị đã được cân chỉnh có thể được chạy với nhiều sự kết hợp đồng thời, cụ thể là, 58 đèn Ayrton Huracán-X và 6 đèn BMFL WashBeam. Giao thức PosiStageNet được sử dụng chỉ ra các thông số vị trí của các thiết bị tracker và Follow-Me giữ cho các đèn Follow-Spot chiếu chính xác vào các mục tiêu. Với 3 mục tiêu sẵn sàng, grandMA3 điều khiển thiết bị (hoặc nhóm thiết bị) sẽ chiếu vào mục tiêu.


Các thiết bị ánh sáng bao gồm 481 đèn Claypaky Xtylos; 161 đèn Ayrton Huracán-X, 140 đèn Mini-Panel FX và 64 đèn Karif-LT; 396 đèn Robe Spiider, 220 đèn LEDBeam 150 và 25 đèn Tetra 2 Batten; 100 đèn GLP Impression FR-10 Bar và 40 đèn JDC1; cùng với 10 đèn Astera AX-2 Bar. Để tạo ra hiệu ứng sương mờ, team triển khai 4 máy tạo sương MDG ATM, 2 máy M3, 4 máy Look Viper NT Fog và 10 quạt Martin by Harman AF-1 MK2.


Ayrton Huracán-X có chức năng đèn key light và đèn Follow-spot key light (với hệ thống Follow-Me - gồm 40 đèn gắn trên những cánh tay chuyển động; 24 thiết bị gắn ở 2 bên và ở phía sau), Robe BMFL được dùng như đèn key light và Follow-spot ở phía trước. “Đó quả thực là một trải nghiệm tuyệt vời, đội ngũ tuyệt vời với kinh nghiệm của họ đã khiến nhiệm vụ phi thường này hoàn thành xuất sắc. Sự kết hợp của ánh sáng và tất cả các yếu tố thị giác khác đã được tạo ra bởi chính chúng tôi. Chính sự linh hoạt là chìa khóa tạo ra một show diễn tốt nhất có thể,” Van Beek chia sẻ.


Thành viên cốt cán của Light Crew gao gồm: Head Lighting Designer, Henk-Jan van Beek; Associate Design/Delegations Liaison/Followspots, Martin Beekhuizen; Associate Designer, Bas de Vries; Gaffer Light, Bart van Stiphout; Operator Key Light/Followspots/Assistant LD, Joost Wijgers; Operator/Assistant LD, Micky Dordregter; và Showlight/Audience/Set và Prop Lighting Operators, Robbert Jan Vernooij, Andre Beekmans, Erik Jan Berendsen cùng Bas  Geersema.


Team Ampco Flashlight bao gồm Project Manager, Ruud Werkhoven; Crew Chiefs, Tijs Winters và Martin Hoop; Lead Systems Tech, Roy Aarninkhof; và Lead Systems Tech for Remote Follow Spots, Dennis Berkhout.




SFX (Special Effect) được điều khiển thông qua một bàn điều khiển grandMA3 light, bên cạnh đó, pháo hoa được điều khiển bởi thiết bị điều khiển Pyrodigital FC-A field controller. Bằng việc cung cấp 5 Pyrodigital network driver riêng rẽ, bộ điều khiển FC-A field controller cung cấp khả năng dự phòng cho hệ thống cũng như gia tăng sức mạnh khai hỏa. Trong show diễn, từng cue được lập trình sẵn và kích hoạt thông qua tín hiệu timecode.


Pyrofoor đã tạo ra một môi trường 3D cho cả hệ thống SFX và pháo hoa thông qua phần mềm Finale 3D dùng cho pháo hoa và Syncronorm Depence² cho SFX. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của ESC, tất cả các supplier đều có thể hình dung trước các hiệu ứng. “Các phần mềm visualisation là một công cụ rất mạnh mẽ để team sản xuất và các đội thi có thể hiểu ý đồ của nhau, nó cho phép chúng tôi chỉ mọi người loại hiệu ứng và thời gian các hiệu ứng được sử dụng trước khi chương trình diễn ra.” Pyrofoor Project Controller, Lucas Gerritzen chia sẻ.


Pyrofoor Show Manager, Jessy Maas, bổ sung thêm: “Chúng tôi muốn chắc chắn rằng chương trình diễn ra an toàn và được dự báo trước trong mọi tình huống. Chúng tôi sử dụng các giao thức được giám sát chặt chẽ và được đánh giá trước các rủi ro bởi chính chúng tôi. Bên cạnh đó chúng tôi sử dụng các kênh an toàn điện tử cũng các nút vật lý dùng để dừng khẩn cấp. Chúng tôi đào tạo crew quan sát và đưa ra các tín hiệu an toàn cho các người vận hành. Nếu không an toàn, chúng tôi sẽ không kích hoạt.”


Resal Laser đã cung cấp 4 đèn laser LaserAnimation Phaenon X30000 30W RGB tích hợp hệ thống điều khiển DSP song song với khả năng truy cập an toàn từ xa, cùng với đó là  2 bộ điều khiển DSP lắp đặt ở cả hai phía của Arena. Hiệu ứng Laser được lập trình trước theo tín hiệu timecode trong phần mềm Capture - phần mềm đồng thời được sử dụng để thiết lập trước camera, ánh sáng, video và các chuyển động. Team Resal Laser bao gồm Project Manager, Michel Povee; Senior Programmer/Operator, Remco Borsje; và các thành viên dự phòng, Koen Janssen và Robert Dame.


“CHẤT LƯỢNG ÂM THANH VÀ HIỆU QUẢ PHỔ TẦN”








Khiến cho âm thanh của chương trình được phát ra, Jeroen ten Brinke nói về vai trò của Audio Designer. “Tôi đã được kiểm tra thiết kế âm thanh miễn phí. Tôi đã chứng kiến thiết lập tại Lisbon nơi mà Daniel Bekermen là Sound Designer, và việc đầu tiên tôi đã làm khi đó, là nhấc điện thoại lên và gọi cho anh ấy. Chúng tôi đã cùng nhau tạo ra thiết kế và sau đó lắng nghe những lời khuyên của anh ấy để đảm bảo chúng tôi đã làm đúng.”


Thiết lập vòng lặp chính và dự phòng bao gồm 2 bàn điều khiển DiGiCo Quantum 7, 2 SD rack và một bàn điều khiển DiGiCo SD9. Được điều khiển bởi một hệ thống dự phòng thông qua Lake LM44, Outline Newton và các bộ chuyển mạch, hệ thống loa công suất lớn đến từ thương hiệu L-Acoustic. “Tôi muốn các bàn điều điều khiển ở gần nhau, đơn giản bởi dây kết nối ngắn khiến việc xử lý sự cố dễ dàng, bàn điều khiển thiết bị kiểm âm nằm ở sau vách ngăn kính, do đó monitor engineer sẽ không nghe gặp vấn đề nghe phải âm thanh lọt vào từ loa PA. Các bàn điều khiển được đặt cách nhau khoảng 1,5m, do đó chúng tôi có thể tương tác dễ dàng. Điều này khiến mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, vui vẻ hơn và có thể giữ tinh thần phấn chấn trong khoảng thời gian làm việc tại hiện trường.” Ten Brinke chia sẻ.


Một lý do khác giải thích việc chúng tôi để bàn điều khiển ở gần nhau, đó là tốc độ trong việc thay đổi vị trí. “Bạn luôn đứng ở đường di chuyển ở hai bên sân khấu, hoặc nằm trong lọt vào hình của camera. Chúng tôi làm việc ở phía trên hàng ghế đầu tiên và tất cả tập trung tại một khu - do đó cáp tín hiệu/điện không cần đi quá dài, chỉ có một vài cáp tới loa PA và một vài dây tín hiệu analogue cho những micro dự phòng. 


Một vòng lặp dự phòng được lắp đặt cho hệ thống monitor và hệ thống FOH, dựa trên DiGiCo và mạng cáp quang cùng thông tin đầu vào từ hệ thống Shure không dây, bên cạnh việc playback được thực hiện bởi 3 chiếc Mac Mini, 3 thiết bị RME Madiface XT và bộ chuyển mạch DirectOut Madi, cả hai hệ thống trên đi qua một thiết bị chuyển đổi DiGiCo Orange Box. Ngoài ra, hệ thống trên còn kết hợp bởi 2 bàn điều khiển Yamaha CL1, hai rack Rio 1608 và 2 rack Rio 3224-2.


Tín hiệu timecode được chạy qua bàn điều khiển, do đó với bàn điều khiển Quantum 7 được trang bị đồng thời 2 bộ nguồn và 2 engine khiến các engineer tự tin hơn về hệ thống của mình. “Nếu tín hiệu timecode dừng lại, tất cả các đều dừng lại, lý do bởi tất cả các bộ phận đều hoạt động dựa trên tín hiệu timecode của chúng tôi. Đó là tính năng quan trọng nhất của bàn điều khiển, Các thiết bị ở đây đều rất an toàn và đáng tin cậy. Tôi đã thực hiện nhiều chương trình với thiết bị nó, do đó tôi đặt sự tin tưởng tuyệt đối vào nó. Thứ quan trọng nhất là tính an toàn, không được phép xảy ra sự cố.” Ten Brinke nói.

 

Team Audio cũng sở hữu một phòng soundcheck chuyên biệt với một hệ thống tương tự tại khán phòng, cùng các bộ truyền tín hiệu đeo lưng, cầm tay và IEM hoạt động ở những tần số khác. Hướng lên phía trên, hệ thống âm thanh chính đến từ thương hiệu L’Acoustic bao gồm 76 loa K1, 36 loa KARA, 4 loa SB18, 6 loa X12 và 18 loa KS28 - được khuếch đại bởi 84 bộ điều khiển khuếch đại LA12X. Hệ thống kiểm âm bao gồm 10 chiếc L’Acoustic KARA, 8 chiếc Synco CW152 và 4 chiếc CW121. Khu vực phía dưới ban công được lắp đặt 10 loa L’Acoustic XT5 - điều khiển bởi 2 bộ xử lý Outline Newton & 10 Lake LM44.


Khu vực phòng xanh được trang bị 56 loa Synco TRC81, 40 loa L’Acoustics K2 và 16 KARA. Thông số kỹ thuật hệ thống không dây tại địa điểm chính bao gồm 20 thiết bị nhận tín hiệu Shure Axient Digital Quad, 24 Shure ADx2FD, 14 Shure ADx2, 24 Shure ADx1 beltpack, 100 headset DPA 4088, 36 đầu mic DPA D-facto, và 120 DPA Korf.


“Với thiết bị Axient Digital của Shure, chúng tôi đã tìm ra một hệ thống hoàn hảo để kiểm soát một thiết lập âm thanh phức tạp theo yêu cầu của Eurovision, nơi mà chất lượng âm thanh và hiệu suất tần phổ là chìa khóa. Shure Wireless Workbench là phần mềm phù hợp nhất, đạt tiêu chuẩn cho hệ thống. Phần cứng của Shure không những cung cấp khả năng kiểm soát và tính ổn định, chúng còn vô cùng đáng tin cậy,” Ampco Flashlight Wireless Coordination Technician, Aart Heus chia sẻ.


Hệ thống IEM bao gồm 11 bộ truyền tín hiệu Shure PSM1000, 70 bộ nhận tín hiệu P10R và 240 tai nghe SE425. Các quy định về phòng tránh nhiễm bệnh COVID-19 được tuân thủ nghiêm ngặt - bao gồm việc không có bất kì tương tác trực tiếp giữa các monitor engineer và nghệ sĩ. mỗi nghệ sĩ được chuẩn bị một IEM và một đầu mic riêng và các micro cầm tay được khử trùng mỗi 3 phút.


Ampco Flashlight Project Manager, Remco Verhoek và team đã phải chứng minh giải pháp của minh trước khi lắp đặt các các thiết bị lên rack. “Tôi cần đảm bảo mọi thiết bị nằm trong hồ sơ đấu thầu trong trạng thái sẵn sàng, và hoạt động cùng nhau trong hệ thống, tập hợp team lại và giám sát chức năng của thiết bị cũng như người vận hành,” Remco hồi tưởng.


Khi Ten Brinke chỉ định các thiết thiết bị âm thanh, nó cùng lúc cũng đem đến tính phức tạp trong cho hệ thống, từ đó cũng tăng khả năng xảy ra rủi ro. “Với tất cả những kinh nghiệm chúng tôi có với DiGiCo, nó là một thiết lập tốt và đơn giản. Hệ thống hạ tầng hoạt động chính xác như những gì chúng tôi kỳ vọng mà không gặp bất kỳ vấn đề nào. Thiết lập dự phòng luôn sẵn sàng, nhưng chúng tôi đã không phải sử dụng chúng,” Verhoek nói.


Thành viên chính của team âm thanh bao gồm, Audio Designer, Jeroen ten Brinke; Ampco Flashlight Project Manager, Remco Verhoek; Monitor Engineers, Ron Peeters và Peter Velthuijzen; FOH Engineers, Tom Gelissen và Ronald Koster; Playback Engineers, Willem de Bruin và Robert Jansen; Lead IEM và RF Tech, Aart Heus và RF Engineer, Johalee Glastra;  PA System Technician, Jurriën Hildebrand.


'TẦM NHÌN CỦA TƯƠNG LAI'





Ay


Thường những màn trình diễn khoa trương thường chiếm vị trí chính tại ESC, tuy nhiên ở một khoảng cách xa với những vũ đạo trên sân khấu, có một màn giao hưởng với mức độ ấn tượng không hề kém cạnh, thứ được treo trên xà nhà là các motor điện, hệ thống thủy lực & khí nén được thiết kế đế có thể di chuyển các thiết bị xung quanh một cách liền mạch, như một màn trình diễn giao hưởng.


Trong vai trò là người giám sát vở ballet của công nghệ tự động hóa năm nay, với thiết bị được cung cấp bởi Stage Kinetic, Production Rigger Michiel Peters và cùng công ty Frontline Rigging, đã kiểm soát đồng thời 285 tấn tải động, 220 tấn tải tĩnh, với việc triển khai và giám sát đồng thời thiết bị palăng của Lodestar và cảm biến chuyển đổi lực (Load Cell) của BroadWeigh. Chỉ thiết bị âm thanh đã có khối lượng là 50 tấn, trong khi các thiết bị ánh sáng được treo lên bởi 208 palăng được phân bố khắp khán phòng - từ phía trên sân khấu cho đến tận khán đài, cùng một vài truss gắn các vật thể chuyển động và được giám sát bởi các load cell.


Đội Opertec Camera được cung cấp 22 palăng cùng 3 kết cấu treo cho camera trượt (rail camera), camera bay và camera cố định lắp đặt trên cao. Team Decor được triển khai 13 palăng - trong đó 12 chiếc cho việc chuyển thiết bị lên xuống sân khấu và cho quá trình lắp đặt, một palăng chuyên biệt được sử dụng để nâng cầu nối giữa Sân khấu A & Sân khấu B, cho phép các thiết bị kỹ thuật kích thước lớn có thể di chuyển giữa hai phía sân khấu bếu cần. Bộ phận Pyro cũng cung cấp 11 trusses cho phần hiệu ứng.


Stage Kinetic cũng tạo ra một giàn khung hỗ trợ cho các thiết bị tự động và video, bao gồm 30 palăng điện tải trọng 2 tấn và 30 palăng điện tải trọng 1 tấn cùng 37 palăng loại thường.

`

Với ánh sáng, video và âm thanh, team lắp đặt một sàn thao tác, trên đó các bộ phận có thể dễ dàng lắp đặt tủ nguồn và tủ tín hiệu dưới mặt đất trước khi treo lên cao, đảm bảo sàn catwalk thông thoáng trong khi vẫn dễ dàng tiếp cận. Một phần của dây ánh sáng được gắn trên các khung truss chuyên dụng với những palăng chuyên biệt tương ứng. 16 palăng được sử dụng để treo màn hình LED chuyển động. 5 khung truss ở phía xa được sử dụng để gắn hơn 100 điểm tham chiếu theo dạng lưới nhằm camera nhận diện được vị trí trong không gian. Với các thiết bị tự động, 40 cánh tay robot được sử dụng để gắn đèn có thể di chuyển theo chiều dọc, hướng từ trên trần xuống.



Disguise Design Software in action





Barco EC50 controller



Khu vực điều khiển Video Content - điều khiển các Media Server của Disguise


Với lần thứ 8 tham gia ESC, Head of Video, Hans Cromheecke chính là cầu nối giữa bộ phận kỹ thuật vận hành màn hình và bộ phận tạo nội dung. “Eurovision luôn là chương trình chạm tới giới hạn của ngành AV và phá vỡ nó với loạt những công nghệ mới. Đó là một rạp xiếc với hơn 180 triệu khán giả theo dõi trên toàn thế giới,” Hans chia sẻ.


Faber Audiovisual cung cấp tất cả thiết bị màn hình LED, media server, thiết bị video và nhân sự. Project Managers, Ben Augenbrou cùng Steve Ackein đồng giám sát triển khai hơn 887m² màn hình LED - đặc biệt là 6m ROE Visual Strip 9,3mm cho nhóm nhạc Maltese, 110m² module Vanish 8 lắp đặt phía trên đường runaway; 3,6m2 module CB5 cho DJ Booth của  AfroJack; 127,1m² module BM4 cho Sân khấu A,  27,1m² cho sân khấu B B; 508m² module BQ4 4.6mm cho màn hình chính, 48m2 để che khu vực truss tại sân khấu A; 7,5m² module DM2.6; và 59m² module Unilumin Utile dành cho các màn hình của khán giả, cùng các Media Server của hãng Disguise.


“Tất cả mọi người đều bị ấn tượng bởi trình độ chuyên môn rất cao của các bên tham gia - dưới sự điều phối của các thành viên đến từ Sightline Production. Sự kiện này, quả thực đã nâng tầm khả tổ chức vận hành cũng như các giải pháp kỹ thuật,” Augenbrou nói.


Với hạng mục trình chiếu, Faber Audiovisuals cung cấp 2 máy chiếu Barco 30K UDX-4K32s, 3 máy Panasonic 10K PT-RCQ10 và một máy 20K PT-RZ21K. Team đồng thời cung cấp màn hình TV hiển thị khắp khu tổ chức, bao gồm một màn hình nhắc bài Philips BDL9870EU AutoCue, cùng gần 100 TV LCD nhãn hiệu LG, Sony và Samsung. Media server và thiết bị điều khiển bao gồm một cặp chuyển mạch Barco E2 Tri-Combo, một bàn điều khiển EC-50, 8 media server Disguise GX 2C và 4 media server vx4 tích hợp phần mềm Notch. Nội dung được cung cấp qua mạng bởi server Synology Nass Cloud và 3 thiết bị chuyển mạch Netgear.


Một điều mà tất cả thành viên tham dự ESC 2021 đều hiểu rằng không có hình mẫu nào của chương trình này trong quá khứ. “Chúng tôi biết rằng chúng tôi cần phải làm mọi việc hoàn thành trong một điều kiện rất khó khăn và không thể dự đoán trước. Quy mô của sự kiện này về số lượng trang thiết bị, nhân sự và thời gian của sự kiện là một thách thức lớn nhưng mọi thứ đã được xử lý tốt từ giai đoạn chuẩn bị.”



Ayrton Mini-Panel FX



Ayrton Mini-Panel FX



Màn hình LED xoay mặt trước


Một màn hình LED xoay được chia thành 4 phần - gồm hai bên cánh và 2 cánh cửa xoay ở chính giữa. Kích thước của phần màn hình LED xoay chính giữa là 9mW x 12mH. 4 thành phần của cửa xoay được lắp ghép lại với nhau mà không lộ khe hở xử lý bởi một hệ thống khóa từ. Đồng thời, 4 motor có khả năng xoay màn hình 180°, xảy ra trong khoảng 16s - làm lộ ra phần phía sau của màn hình LED - nơi lắp đặt 70 chiếc đèn Ayrton Mini-Panel FX. Phía  trước và phía sau của màn hình LED xoay, xấp xỉ 60m² sàn sân khấu cũng được quay đồng thời. Màn hình LED hai phía cạnh đặt trên ngàm của chúng trên một khung thép, mỗi một xe đẩy trong 18 xe đẩy thép có thể chưa 4 hàng LED modules (??!).


Với yêu cầu về mức độ  cao tin cậy trong khi vận hành của EBU khiến team phải cung cấp một hệ thống dự phòng đầy đủ. “Chúng tôi tự hào về những giải pháp do chúng tôi cung cấp, cách chúng tôi đưa chúng vào vận hành và truyền tải vô cùng hoàn hảo. Đó là cơ hội duy nhất cho chúng tôi chỉ ra rằng năng lực của chúng tôi đến đâu, chúng tôi đã học được thêm nhiều kinh nghiệm và kiến thức, thứ chúng tôi có thể tiếp tục sử dụng trong tương lai,” Augenbrou chia sẻ.


Sau một năm không làm việc trong lĩnh vực event, Michiel Peters rất hân hạnh nhận vai trò Head of Rigging. “Chúng tôi đã quyết định không treo các palăng chuyển động lên hệ thống khung chính - và đánh mất một vài tấn tải trọng,” anh ấy bắt đầu. “Lịch trình chuyển đồ vào là một thử thách, Frontline Rigging và Ampco Flashlight đã phải kéo lên 514 palăng xích và 60 palăng chuyển động, treo ngược cơ thể 124kg, trong 30 tiếng. Mặc dầu đó là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng đó là một niềm đặc ân và sự tự hào khi được làm việc tại ESC 2021. Đây là một dự án lớn, đôi khi phải đối mặt với rất nhiều thách thức nhưng, tôi sẽ quay trở lại làm thêm một lần nữa ngay lập tức.” 


The Stage Kinetic crew bao gồm CEO/PM, Jens Buller; Site Manager, Sascha Schaper; Operators, Fabian Röttger, Andreas Homeyer, Ralf Tiemann và Manuel Dehn; và Construction Department, Kai Adelt và Thorsten Lobert. Ampco Flashlight cung cấp tất cả cơ sở vật chất rigging, giám sát bởi Head Riggers Roald Gluvers và Joey Dunnewijk và Lighting/ Rigging PM, Ruud Werkhoven. Phần còn lại của Ampco Flashlight rigging team bao gồm Crew Chiefs, Dirk Sommer và Christiaan Schutte.


‘GIẢI PHÁP TỐT NHẤT VÀ KẾT QUẢ’


NEP và United kết hợp cùng cung cấp sản xuất nội dung đa - camera, dưới sự giám sát của ESC Head of Broadcast Gijs Vos. Đó chính là kết quả của quá trình đấu thầu toàn châu Âu, hai đơn vị truyền thông được ủy nhiệm bởi NOS chịu trách nhiệm phần bỏ thầu, bao gồm phương tiện kỹ thuật, nhân sự và thiết bị của 3 buổi biểu diễn trực tiếp tại Rotterdam Ahoy. NEP cung cấp AR-Platform trong khi Gravity cung cấp nội dung AR & nội dung màn hình LED.


“Chúng tôi vô cùng từ hào khi 2 công ty Hà Lan có cơ hội ghi hình sự kiện âm nhạc vô cùng lớn này. ESC là một sự kiện kết nối con người với nhau và cũng là thứ công chúng vô cùng trông chờ. Đó là lý do vì sao sự kỳ vọng và tiêu chuẩn chất lượng cao hơn bao giờ hết,” NEP Managing Director, Ralf van Vegten nói.


United CEO, René Delwel bổ sung: “Thật vui khi thấy hai công ty có thể làm việc như một team thống nhất cho sự kiện lớn này, Chúng tôi coi phiên bản lần thứ 65 của ESC là một sự kiện duy nhất và mang tính quan trọng tầm cỡ quốc gia. Nhân viên của chúng tôi ý thức được điều đó và làm việc rất chăm chỉ để đem đến giải pháp cúng như kết quả tốt nhất.” 






Lawo Mc²56m in action


Để đảm bảo chất lượng âm thanh và độ tin cậy, NEP đã trang bị 2 xe sản xuất truyền hình lưu động (OB Truck - Outside Broadcasting Truck) UHD1 và UHD2 với bàn điều khiển 64-fader Lawo mc²56m, các bộ định tuyến lõi Nova và hệ thống điều khiển phát sóng để điều khiển phát tín hiệu. Hai xe phát sóng được sử dụng ở cấu hình một hoạt động chính, một chiếc dự phòng để đảm bảo an toàn. Thêm đó 2 bàn điều khiển 48-fader mc²56 cùng các thiết bị kiểm tra tín hiệu và các thiết bị bên ngoài được cung cấp từ Lawo Rental được đặt riêng rẽ ở Phòng Âm Thanh, Tijmen Zinkhaan hòa âm cho các đội thi và các nghệ sĩ khách mời.


Trong khi các kết nối âm thanh phát sóng được truyền dẫn qua  RAVENNA/ AES67, các tín hiệu âm thanh dành do hệ thống âm thanh chính tại Ahoy cung cấp bởi các card Dante nằm trong bộ định tuyến lõi NOVA. “Không có bất cứ sự nghi ngờ với bàn điều khiển Lawo - thiết bị hoàn hảo dành cho nhiệm vụ danh giá này. Với âm thanh tuyệt hảo, khả năng định tuyến vô hạn, thiết lập của chúng tôi tích hợp tất cả một cách liền mạch và có thể được điều khiển dễ dàng và thuận thiện thông qua hệ thống điều khiển phát sóng Lawo VSM.” ESC Head of Sound, Thijs Peters tuyên bố.


'SỰ LIÊN LẠC CHÍNH LÀ CHÌA KHÓA'



RIEDEL BOLERO BELTPACK - INTERCOM KHÔNG DÂY



Với việc có rất nhiều những yếu tố chuyển động diễn ra đồng thời, sự liên lạc là chìa khóa. Riedel đã chịu trách nhiệm cho việc truyền thông tin, phân phối tín hiệu, đường truyền dẫn chính, giao diện xác nhận, bình luận và giải pháp kiểm soát truy cập bao gồm các dịch vụ chuyên nghiệp liên quan. “Kể từ khi chúng tôi vinh hạnh được trở thành đối tác dài hạn của EBU cho các dịch vụ của ESC, tiến trình xử lý hằng năm chủ yếu là liên lạc với các đài phát thanh chủ nhà mới để điều chỉnh phạm vi hợp đồng với concept thực tế của họ cùng phương thức làm việc và truyền tải cũng như các yêu cầu liên quan,” Riedel’s Thurid Wagenknecht giải thích. Năm nay đánh dấu nhiều thiết bị lần đầu tiên sử dụng tại ESC như Artist-1024, MediorNet MuoN và FusioN cũng tính năng chuyên biệt cho COVID-19 về việc xác nhận và kiểm soát ra vào.


Riedel cũng tích hợp một môi trường kiểm tra nằm trong quy trình xác nhận ra vào tại địa điểm. Tính năm kiểm soát ra vào chuyên biệt trong năm nay được thiết kế để giảm thiểu nguy cơ lây truyền COVID-19. Giải pháp dựa trên nền tảng RFID bao gồm việc tự động hủy kích hoạt của chứng nhận sau mỗi 48 tiếng, cùng với việc tái kích hoạt khi nộp lại kết quả âm tính COVID-19.


“ESC 2021 rõ ràng đã tạo ra một chuẩn mực mới trong việc truyền tải một show diễn tuyệt vời dưới hoàn cảnh đại dịch. Mỗi dự án đều đem đến những tập hợp thách thức độc nhất. Kinh nghiệm trong hơn 30 năm qua khiến chúng tôi coi COVID-19 giống như mọi thách thức khác. Và khi chúng tôi xem xét tất cả những thách thức này một cách nghiêm túc, chúng tôi có thể xử lý tất cả, lý do bởi bởi chúng tôi luôn có khả năng linh hoạt, thích ứng và chuyên nghiệp ở mức độ cao nhất,” Wagenknecht bổ sung.


‘WHAT A RIDE IT HAS BEEN’



Container thiết bị cung cấp nguồn điện cho toàn bộ các hoạt động - đến từ The Powershop



Container thiết bị cung cấp nguồn điện cho toàn bộ các hoạt động - đến từ The Powershop


The Powershop được lựa chọn là supplier kỹ thuật cho toàn bộ nguồn điện trong chương trình. Toàn bộ show diễn hoạt động dựa trên nguồn điện cung cấp bởi những máy phát hiện đại và hiệu suất cao của công ty. Nguồn điện phải được cung cấp với mức độ sẵn sàng cao nhất, mọi thứ đều được chuẩn bị dự phòng từ thiết kế nguồn điện tới hệ thống máy phát điện, thứ được crew gọi một cách trìu mến là “trang trại máy phát” - được lắp đặt ở phía ngoài Rotterdam Ahoy.


Hệ thống máy phát bao gồm 6 container 20ft chứa 2 máy phát 400kVA với tổng công suất 3,8MW, một container chuyển mạch 8000 Amp, 20 thiết bị phân phối 400 Amp với hơn 100 thiết bị phân phối (125, 63, 32 Amp), 3500m bộ dây dẫn powerlock 120mm2 với tổng chiều dài dây cáp tới 17,5km và 5000m dây nguồn. Toàn bộ thiết lập được kiểm soát bởi nền tảng giám sát Powershop Calculus và phần mềm GridVis.


Giống như mọi hoạt động sản xuất phức hợp khác, thành công của ESC đã được lên kế hoạch chi tiết và chuẩn bị trong mọi khía cạnh, đồng thời kiểm soát rất nhiều các bên sản xuất liên quan, bao gồm performer, producers, designers, suppliers and crew. Trong khi TPi thưởng thức một màn ăn mừng của hoạt động biểu diễn âm nhạc trực tiếp với các yếu tố công nghệ cao trên TV. Những gì truyền tải qua màn hình chính là nền sự sáng tạo dành của các  quyết định được đưa ra trong quá trình chuẩn bị cũng như khi chương trình diễn ra tại Rotterdam  


Ban đầu, trong quá trình marketing, các nhà tổ chức đã đưa ra khẩu hiệu “mở cửa” hay đúng hơn là “mở cửa với tất cả mọi người”. Nghệ sĩ và các đội thi từ 39 quốc gia cũng như 3500 khán giả đã được chào mừng quay trở lại, cánh cửa với ESC thực sự đã được mở ra - theo một cách “bình thường mới”.


Sau những tác động tàn phá của của COVID-19 - không chỉ ảnh hưởng tới ESC năm ngoái (đã bị hoãn) mà còn là tới toàn bộ ngành event, chúng ta có thể tìm thấy niềm an ủi trong lời đúc kết khiêm nhường và đầy cảm xúc của ESC Head of Production, Erwin Rintjema. “Đã có một hành trình như vậy! Tôi cảm thấy rất may mắn khi được trở thành một mảnh ghép của ESC 2021. Đó là một niềm vinh hạnh và điểm nhấn trong sự nghiệp dù trong bất kì hoàn cảnh nào, nhưng để có thể thực hiện điều này vào năm 2021 thì thật kì diệu. Đó đã là một chuyến tàu lượn siêu tốc với rất nhiều công việc khó khăn, nhiều khoảnh khắc lưỡng lự và đan xen là thất vọng. Nhưng phần thưởng thì tuyệt vời hơn những gì tôi có thể tưởng tượng, Tôi tin rằng chúng tôi đã tạo ra một chương trình tuyệt vời, trong một năm mà các chương trình giải trí trực tiếp rất khan hiếm. Tôi đánh giá chương trình này giống như một dấu hiệu của hy vọng về khả năng phục hồi của ngành cũng như một sự giới thiệu của ngành công nghiệp sự kiện trực tiếp của Hà Lan. Dù chúng tôi mới chỉ kết thúc ESC, tôi đã rất nhớ khoảng thời gian là khi mình là một phần trong ESC - và tôi đoán rằng điều đó đã nói lên tất cả!”



Load out thiết bị - sau khi kết thúc chương trình



Load out thiết bị - sau khi kết thúc chương trình






Eurovision Song Contest 2021 Production Timelapse



Clip phỏng vấn của chuyên trang Event Elevator với thành viên trong BTC Eurovision Song Contest 2021


Dịch theo bài phỏng vấn của tạp chí TPi - phát hành tháng 6 năm 2021